Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Cùng tìm hiểu về thị trường đồ uống nhanh: Cuộc đấu giữa các ngoại binh

Ông John Culver, Chủ tịch Starbucks tại Trung Quốc và khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã lưu ý rằng, Việt Nam là quốc gia sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới, sau Brazil và trong nhiều năm qua, Việt Nam là nguồn cung ứng cà phê cho Starbucks. “Điều này dường như trở thành lợi thế với hãng về nguồn nguyên liệu cà phê và đúng với khẩu vị thường thức cà phê của người dân Việt Nam”, ông John Culver nói.
Chỉ vài tuần sau khi Starbucks chính thức có mặt tại Việt Nam, thì nhà bán lẻ cà phê tách lớn nhất tại Mỹ - Dunkin’Donut cũng lên tiếng sẽ sớm khai trương cửa hàng tại đây. Động thái này cho thấy, thị trường đồ uống nhanh Việt Nam đang rất hấp dẫn với các doanh nghiệp ngoại.
Một cửa hàng Dunkin'Donuts
Thách thức của Starbucks

Nếu Starbucks áp dụng chiến thuật “kín như bưng” thì Dunkin’Brands (với 2 thương hiệu chính là Baskin-Robbins và Dunkin’ Donut) lại tuyên bố thẳng thừng là sẽ phát triển nhà hàng trên khắp Việt Nam trong vòng vài năm tới và vị trí đầu tiên sẽ là TP.HCM.

Ông Giorgio Minardi, Chủ tịch thương hiệu quốc tế của Dunkin’ Brands Group Inc cho biết, thông qua sự hợp tác với Công ty TNHH Thực phẩm và đồ uống Việt Nam (là đối tác nhận nhượng quyền thương mại), Công ty có thể hiểu rõ hơn về người tiêu dùng Việt nam và sẽ sớm mở cửa hàng đầu tiên tại TP. HCM.

Theo nhận định của Dunkin’ Brands, Việt Nam là thị trường thích hợp với các chuỗi cửa hàng đồ uống nhanh của Mỹ. Cách đây 1 năm, thương hiệu Baskin Robbins đã vào Việt Nam và hiện có 13 cửa hàng trên cả nước.
Bà Lê Hồng Thủy Tiên, Chủ tịch Công ty TNHH Thực phẩm và đồ uống Việt Nam cho hay, Dunkin’ Dunut sẽ đem đến những thực đơn (gồm cà phê Dunkin’ Donuts Blend, đồ uống hoa quả, trà đá cùng các loại bánh nướng, bánh rán, bánh mì…), nhằm đáp ứng tốt nhất thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam.
Ai sẽ thắng thế?

Cách đây 55 năm, Bill Rosenberg, người sáng lập ra Dunkin’ Brands đã đưa ra triết lý kinh doanh giản đơn như sau: “Tạo nên và phục vụ các loại cà phê và bánh rán tươi nhất, ngon nhất một cách nhanh nhất và lịch sự tại những cửa hàng hiện đại”.
Triết lý đó vẫn còn giá trị đến ngày nay và là nền tảng giúp cho Dunkin’Donuts phát triển thành chuỗi cung cấp cà phê và bánh nướng lớn nhất trên thế giới. Dunkin’sDonuts hiện cung cấp hơn 12 loại cà phê, bánh rán, bánh mì tròn, bánh nướng xốp, sandwich cho bữa sáng và các loại bánh nướng khác.

Dunkin’Donuts đã xác định yếu tố quan trọng mang tính chiến lược của mình, đó là phục vụ thức ăn và nước uồng một cách nhanh chóng, tươi mới với giá cả phải chăng cho những khách hàng bận rộn với nhịp sống hối hả.

Chỉ sử dụng 100% loại hạt cà phê Arabica, Dunkin’Donuts cung cấp loại cà phê rang có hương vị dịu, được xay theo công thức đặc biệt của Công ty. Gần đây nhất, Dunkin’Donuts đã cho ra mắt sản phẩm Smoothies trong chuỗi thực đơn snack và thức uống phổ biến được làm từ sữa và trái cây tươi.
Starbucks đã khai trương cửa hàng đầu tiên tại TP.HCM
Trong khi đó, sau khi khai trương cửa hàng đầu tiên vào đầu tháng 2 tại TP. HCM, “gã khổng lồ cà phê” Starbucks kỳ vọng sẽ nhân lên thành con số hàng trăm cửa hàng.
Ông John Culver, Chủ tịch Starbucks tại Trung Quốc và khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã lưu ý rằng, Việt Nam là quốc gia sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới, sau Brazil và trong nhiều năm qua, Việt Nam là nguồn cung ứng cà phê cho Starbucks. “Điều này dường như trở thành lợi thế với hãng về nguồn nguyên liệu cà phê và đúng với khẩu vị thường thức cà phê của người dân Việt Nam”, ông John Culver nói.

Bà Nguyễn Quỳnh Hương, Giám đốc Khối đo lường bán lẻ Công ty Nghiên cứu thị trường AC Neilsen Việt Nam nhận xét, nhiều người xếp hàng hơn hai giời đồng hồ trong ngày khai trương cửa hàng đầu tiên của Starbucks tại TP.HCM để được trải nghiệm cảm giác uống cà phê. Điều này cho thấy, họ sẵn sàng chi trả thêm để có được sự trải nghiệm mới này.

Như vậy, sự xuất hiện tại Việt Nam của hai tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp cà phê thế giới cho thấy, cơ hội giữ thị phần của doanh nghiệp nội – Cà phê Trung Nguyên trở nên mong manh hơn. Và cuộc chiến chính sẽ là sự đối đầu giữa hai ông lớn Starbucks và Dunkin’Donut.

Giới thiệu cùng bạn về thương vụ Careerbuilder - VON: Lợi cả 3 bên

VON bán được mình trong thời điểm này cũng đã là một thành công. Thời điểm này là lúc kinh tế khó khăn, tuyển dụng tất cả các ngành đều giảm, chưa kể là tỉ lệ sa thải, cắt giảm nhiều hơn tuyển mới. Thống kê của Vietnamworks cho thấy, trong 10 tháng đầu năm 2012, 55/58 ngành có chỉ số nhu cầu nhân lực trực tuyến tăng trưởng âm.
Tuần đầu năm Quý Tỵ, một thương vụ M&A mới trong thị trường tuyển dụng trực tuyến đã diễn ra: CareerBuilder - một công ty của Mỹ chuyên về giải pháp nguồn nhân lực, đã trở thành đối tác chiến lược của VON (Vietnam Online Network sở hữu kiemviec.com, HRvietnam.com).
Việc CareerBuilder đặt chân vào Việt Nam có thể là một dấu hiệu tốt cho sự hồi phục cũng như tiềm năng của thị trường
CareerBuilder có 4 cái lợi trong thương vụ này. Thứ nhất là về vấn đề giá cả, dù giá trị thương vụ không được tiết lộ. Thương vụ diễn ra trong thời điểm kinh tế khó khăn. Hơn nữa ngành thương mại điện tử đang phát triển khá bất ổn và mất lòng tin của người dùng. Do vậy, việc mua lại một công ty trực tuyến chắc chắn sẽ có cái giá dễ chịu.
Thứ hai, với việc mua đứt 100% cổ phần của Quỹ DFJ VinaCapital và các cổ đông khác trong VON, CareerBuilder đạt được mục tiêu tiếp tục tiến quân mạnh mẽ vào thị trường châu Á như đã vạch ra và theo đuổi hơn 3 năm nay.
Ông Hunter Arnold, Chủ tịch của CareerBuilder châu Á - Thái Bình Dương cho biết: “Việc trở thành đối tác chiến lược với VON sẽ đẩy mạnh bước tiến của CareerBuilder vào thị trường Việt Nam, cũng là một bước quan trọng trong việc mở rộng thị trường châu Á của chúng tôi. Việc kết hợp giữa sự thấu hiểu nhu cầu của nhà tuyển dụng Việt Nam từ VON với công nghệ, dịch vụ tiên tiến cùng sự tiếp cận toàn cầu của CareerBuilder sẽ đem lại tiềm năng tăng trưởng cao”.
Thứ ba, việc mua lại VON, công ty này cũng đồng thời sở hữu luôn cơ sở dữ liệu khách hàng mà VON đã xây dựng từ năm 2006 đến nay bao gồm kiemviec.com với hơn 1 triệu thành viên, 400.000 khách truy cập mỗi tháng và HRVietnam.com với chức năng tập trung vào dịch vụ săn đầu người và các giải pháp nhân lực cho nhà tuyển dụng. Công ty này không phải mất thời gian để xây dựng lại từ đầu cơ sở dữ liệu khách hàng, cộng vào đó là cơ sở dữ liệu có sẵn của CareerBuilder với hơn 50 triệu hồ sơ ứng viên, đây có lẽ là đối thủ đáng gờm cho những trang tuyển dụng trực tuyến đang hoạt động ở Việt Nam.
Cuối cùng là tiềm năng tăng trưởng của ngành này. Tuy đang trong giai đoạn khá khó khăn nhưng xét về lâu dài, tiềm năng của tuyển dụng lao động trực tuyến vẫn có, tuyển dụng trực tuyến đang được hầu hết doanh nghiệp áp dụng. Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam khá cao, đạt trung bình từ 6-8% trong 10 năm qua, cùng với tỉ lệ người sử dụng internet ngày càng tăng (khoảng 33%) khiến thị trường tuyển dụng trực tuyến tại Việt Nam trở nên hấp dẫn.
DFJ VinaCapital là quỹ đã đầu tư vào VON ngay từ những ngày đầu tiên công ty này thành lập. VON đạt tốc độ tăng trưởng doanh thu khá cao từ 80-150%/năm, có thể thấy sau 6 năm đầu tư DFJ VinaCapital đã thu món lợi không phải là nhỏ. Ngay khi tình hình kinh tế khó khăn và lĩnh vực tuyển dụng trực tuyến gặp lao đao thì nhà đầu tư này đã chọn giải pháp thoái vốn và thoái thành công, đó là một thành công. Thêm vào đó, VinaCapital đang trên đà thoái vốn khá nhiều dự án trong năm 2012 và tái đầu tư mạnh mẽ hơn. Có thể bán trong lúc này, Quỹ DFJ sẽ không đạt được cái giá quá cao, nhưng sau chừng ấy năm đầu tư, với mức tăng trưởng ấn tượng như của VON, chắc chắn đây cũng là kết quả đáng để hài lòng với VinaCapital.
Ông Thân Trọng Phúc, Giám đốc Điều hành DFJ VinaCapital cũng đồng tình rằng đây là thời điểm thích hợp để thoái vốn khỏi VON, sau 6 năm đầu tư, khi có nhà đầu tư lớn đến thì quỹ sẵn lòng bán.
VON bán được mình trong thời điểm này cũng đã là một thành công. Thời điểm này là lúc kinh tế khó khăn, tuyển dụng tất cả các ngành đều giảm, chưa kể là tỉ lệ sa thải, cắt giảm nhiều hơn tuyển mới. Thống kê của Vietnamworks cho thấy, trong 10 tháng đầu năm 2012, 55/58 ngành có chỉ số nhu cầu nhân lực trực tuyến tăng trưởng âm.
Hơn nữa, nhìn lại hoạt động của VON mới thấy ông chủ của công ty này đang nhắm vào việc bán dần những sản phẩm của mình. Năm qua, Yume cũng được VinaCapital bán cho MJ Group, Timnhanh cũng đang được rao bán.
Lợi thế tiếp theo của VON thuộc về chiến lược. CareerBuilder là công ty sở hữu các website việc làm trực tuyến lớn nhất ở Mỹ và đang trực tiếp khai thác tại 22 thị trường ngoài và là đối tác có mặt tại hơn 60 thị trường toàn cầu. Hợp tác với một đối tác như CareerBuilder là cơ hội để VON được hỗ trợ nhằm có thể cạnh tranh với các tên tuổi lớn như Vietnamworks, timviecnhanh.com...
Trong thời điểm kinh tế khó khăn như hiện nay, việc một ông lớn như CareerBuilder đặt chân vào Việt Nam hoàn toàn có thể là một dấu hiệu tốt cho sự hồi phục cũng như tiềm năng của thị trường. Có lẽ, bức tranh thị trường tuyển dụng trực tuyến năm nay sẽ có nhiều đổi khác thú vị.

Tìm hiểu về câu chuyện: Sau Starbucks là McDonald's

Đồng thời, sau thương vụ mua lại cổ phần của Highland Coffees và Phở 24 cùng sự xuất hiện của họ tại tầng 4 Diamond Plaza (quận 1) cũng có thể thấy, ngoài các cửa hàng truyền thống như trước, Jollibee phải chăng đang đi theo mô hình phát triển khu ẩm thực phức hợp vừa có sự góp mặt của Jollibee, vừa có hai thương hiệu mà họ mua năm 2011?
Hé lộ đối tác của McDonalds
Lãnh đạo cao cấp của tập đoàn đồ ăn nhanh McDonalds nổi tiếng thế giới đã đến Việt Nam để tìm kiếm đối tác nhượng quyền thương mại. Sau những tín hiệu thăm dò, việc McDonalds sẽ bước chân vào Việt Nam ngày càng rõ ràng hơn.
Tháng 8/2012, đại diện của tập đoàn thức ăn nhanh McDonalds đến Việt Nam và gây chú ý bởi thông tin "tìm kiếm đối tác nhượng quyền thương mại".
Dù chuyến "viếng thăm" được đánh giá là không có tín hiệu rõ ràng nhưng phía "gã khổng lồ” này cũng kịp để lại một số thông tin, đại loại như: dự kiến hai năm tới, họ sẽ chính thức vào Việt Nam thông qua đối tác nhượng quyền 100% vốn; rồi họ sẽ mở hai cửa hàng đầu tiên ở TP.HCM; đồng thời có kế hoạch mở 100 cửa hàng trong tương lai...".
Đầu năm Rắn, đã có không ít lời bàn tán về việc McDonalds đang trong quá trình đàm phán với ba đối tác Việt Nam đã làm nóng thị trường. Theo TS. Lý Quý Trung, các thương hiệu lớn như McDonalds, Burger King, 7-Eleven... ít khi bán nhượng quyền đơn lẻ (single-unit franchise) mà chỉ bán độc quyền cho một khu vực hay một quốc gia (master franchise hoặc area delelobment franchise).
Do đó, cuộc thương lượng giữa McDonalds với các đối tác tại Việt Nam vẫn chưa ngã ngũ về việc McDonalds sẽ chọn ai trong số họ. Hoặc không loại trừ khả năng McDonalds sẽ bán nhượng quyền cho ít nhất hai đối tác tại Việt Nam (nhưng theo vùng miền, tức 1 đối tác ở khu vực phía Bắc và một đối tác ở khu vực phía Nam), bởi sẽ hiếm có một doanh nghiệp (DN) nào ở Việt Nam có thể gánh được mức phí mua nhượng quyền McDonalds trong thời gian dài.
Hiện tại, nếu xét về số lượng cửa hàng, Lotteria vẫn đang dẫn đầu với 146 cửa hàng so với 134 của KFC và 30 của Jollibee. Trong khi đó, xét về mức độ tăng trưởng và doanh thu, KFC có phần nhỉnh hơn. Cụ thể, theo thống kê của Euromonitor, KFC dẫn đầu ngành công nghiệp fastfood ở Việt Nam năm 2011.
Những DN lẫn cá nhân tham gia vào "cuộc đua" đưa McDonalds vào Việt Nam cũng chẳng phải "tay vừa" vì thương hiệu càng lớn, giá trị càng cao và đi kèm theo đó là các yêu cầu không đơn giản.
Trước hết, bên mua nhượng quyền (franchisee) phải... giàu! Tại sao? Nếu không kể phí nhượng quyền ban đầu (initial fee) 45.000 USD thì bên mua sẽ phải trả thêm hàng loạt các khoản phí khác.
Nhìn chung, về phí và chi phí có thể chia thành hai phần: chi phí trước và trong quá trình hoạt động của cửa hàng nhượng quyền. Được biết, tổng vốn đầu tư cho mỗi cửa hàng McDonalds (bao gồm phí nhượng quyền, thuê bất động sản, thiết bị, trang trí...) dao động từ 214.000 - 2,1 triệu USD!
Cũng theo thống kê của Tập đoàn McDonalds, trên 88% các nhà nhượng quyền của họ có hơn một cửa hàng. Như vậy, franchise tại Việt Nam cũng không ngoại lệ, bởi việc mở rộng chuỗi cửa hàng không chỉ tăng độ phủ mà còn đảm bảo về mặt doanh thu cho hoạt động kinh doanh.
Ngoài chi phí ban đầu, bên mua nhượng quyền của McDonalds phải thực sự là DN có đủ tiềm lực tài chính vì khi cửa hàng đã "bấm máy", DN cũng phải thanh toán hơn 20 khoản phí khác, điển hình như: phí dịch vụ (4%/doanh thu thuần; trả cho bên bán nhượng quyền), phí quảng bá (tối thiểu 4%/doanh thu thuần)...
Cũng cần phải nói thêm là trong các điều khoản nhượng quyền của Tập đoàn McDonalds, họ không chấp nhận bên mua không trực tiếp điều hành hoặc quản lý các cửa hàng.
Theo quan điểm của bà Nguyễn Phi Vân, người từng đưa thương hiệu cà phê Gloria Jeans Coffees (Úc) về Việt Nam (thông qua hình thức master franchise), không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở những thị trường đang phát triển khác, để tìm DN mua nhượng quyền từ các thương hiệu lớn trên thế giới không phải dễ, bởi rào cản về tiềm lực tài chính cũng như kinh nghiệm quản lý còn hạn chế; trong khi DN hay các cá nhân có đáp ứng đủ điều kiện thì không muốn tham gia điều hành hoặc quản lý trực tiếp tại các cửa hàng.
Hiện tại, dù McDonalds chưa có bất kỳ phát ngôn nào cho việc đang làm việc với ai tại Việt Nam nhưng những thông tin hành lang thì xác định, ba đối tác của họ là Công ty CT&D, Sơn Kim Group và một nhân vật có tiếng trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại thị trường Việt Nam.
Song, hai trong số các bên được cho là tham gia mua nhượng quyền của McDonalds đều từ chối bình luận về thông tin này và chỉ giải thích rất ngắn gọn, đại loại theo kiểu đây chỉ là tin đồn, chuyện gì đến sẽ đến và chưa có gì cụ thể để nói. Hơn nữa, trong giai đoạn này, cả bên bán và bên mua đều buộc phải giữ "bí mật" cho nhau.
Nhưng nếu những nghi vấn này là thật, thị trường thức ăn nhanh tại Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều cuộc rượt đuổi ngoạn mục giữa các "ông lớn" khi McDonalds chính thức bước vào.
Bánh to kẹp bánh nhỏ
Cái bóng quá lớn của McDonalds chắc chắn tạo nên sự thay đổi lớn tại thị trường đồ ăn nhanh của Việt Nam, sau khi buộc các đối thủ như KFC, Lotteria, Jollibee, BurgerKing phải phân chia lại thị phần.
Hình ảnh giới trẻ TP.HCM xếp hàng rồng rắn, chờ làm khách hàng của Starbucks vào ngày khai trương 1/2/2013 dễ khiến người ta liên tưởng đến phản ứng của người tiêu dùng Việt trong trường hợp "người khổng lồ” McDonalds xuất hiện.
Song, đây chỉ là dự đoán, thực tế, thương hiệu này cũng sẽ đối diện với không ít rào cản từ các đối thủ, cũng giống như họ đã và đang gặp KFC (thuộc sở hữu của Yum! Brand, Mỹ) ở Trung Quốc hay Jollibee ở Philippines.
Dù tại thị trường Việt Nam hiện đang có sự tham gia của hàng loạt thương hiệu fastfood "ngoại", nhưng đến thời điểm này, không ai phủ nhận nhóm dẫn đầu về doanh thu lẫn số lượng cửa hàng đang thuộc về ba gương mặt quen thuộc là KFC, Lotteria và Jollibee. Tất cả đều đặt chân vào thị trường từ những năm 1990, hai trong số đó thông qua con đường nhượng quyền thương mại.
Ba tên tuổi này đang dè chừng McDonalds và đang thăm dò "ai sẽ là đối tác chính thức và cửa hàng đầu tiên của McDonalds ở đâu". "Thương hiệu McDonalds lớn, có sức hút không chỉ với người tiêu dùng thành thị ở nước sở tại mà còn đối với khách du lịch.
Hiện tại, nếu xét về số lượng cửa hàng, Lotteria vẫn đang dẫn đầu với 146 cửa hàng so với 134 của KFC và 30 của Jollibee. Trong khi đó, xét về mức độ tăng trưởng và doanh thu, KFC có phần nhỉnh hơn. Cụ thể, theo thống kê của Euromonitor, KFC dẫn đầu ngành công nghiệp fastfood ở Việt Nam năm 2011.
Sự gia nhập của McDonalds sẽ càng khiến cuộc đua trong ngành công nghiệp fastfood ở Việt Nam ngày càng quyết liệt", ông Đoàn Đình Hoàng, chuyên gia tư vấn thương hiệu, từng chia sẻ với Doanh Nhân Sài Gòn.
Không những "lấy cảm hứng" từ McDonalds, "cuộc chiến" trong chính bản thân "ba ông lớn" vẫn không hề giảm nhiệt. Bởi sự nhanh chân của người đi trước sẽ làm giảm cơ hội cho người đến sau trong việc phân chia nhóm khách hàng, vị trí và quy mô chuỗi cửa hàng.
Hiện tại, nếu xét về số lượng cửa hàng, Lotteria vẫn đang dẫn đầu với 146 cửa hàng so với 134 của KFC và 30 của Jollibee. Trong khi đó, xét về mức độ tăng trưởng và doanh thu, KFC có phần nhỉnh hơn. Cụ thể, theo thống kê của Euromonitor, KFC dẫn đầu ngành công nghiệp fastfood ở Việt Nam năm 2011.
Trong khi đó, con số 146 cửa hàng đã giúp Lotteria đạt được mức doanh thu 39 tỷ đồng chỉ trong vòng từ mùng 1 - 11 Tết vừa rồi, riêng năm 2012, doanh thu tăng khoảng 30% so với năm 2011.
Sự tăng trưởng này chủ yếu ở TP.HCM vì những năm qua, thương hiệu đến từ xứ sở kim chi tập trung nhiều hơn cho việc phát triển cửa hàng ở khu vực TP.HCM; Hà Nội cũng là thị trường trọng điểm nhưng theo đại diện của Lotteria, đây không phải là thị trường dễ bứt phá, bởi những yếu tố về mặt văn hóa, hơn nữa, KFC lại đang chiếm ưu thế ở Hà thành.
"Năm 2013, chúng tôi sẽ mở thêm 50 cửa hàng và 30% trong số này là ở các tỉnh, thành ngoài TP.HCM như: khu vực miền Tây, TP. Đà Lạt...", ông Trương Hàm Liêm, Trưởng Phòng Marketing Lotteria Việt Nam cho biết.
Ngoài việc tăng độ phủ, Lotteria Việt Nam cũng đặt kỳ vọng vào hamburger và đây sẽ là thực đơn tiềm năng trong tương lai do dễ ăn và giá chấp nhận được.
Không riêng gì Lotteria, nhân vật số 1 và số 3 cũng đã có chiến lược đẩy mạnh phát triển chuỗi cửa hàng ở Việt Nam. Cụ thể, ông Graham Allen, Chủ tịch Yum Restaurant International đã từng chia sẻ mục tiêu đạt 180 - 190 cửa hàng vào năm 2014. Riêng Jollibee, ông Jojo Subido, Tổng giám đốc Jollibee Việt Nam nói với báo chí mong muốn mở 500 cửa hàng ở Việt Nam (100 cửa hàng/5 năm).
Đồng thời, sau thương vụ mua lại cổ phần của Highland Coffees và Phở 24 cùng sự xuất hiện của họ tại tầng 4 Diamond Plaza (quận 1) cũng có thể thấy, ngoài các cửa hàng truyền thống như trước, Jollibee phải chăng đang đi theo mô hình phát triển khu ẩm thực phức hợp vừa có sự góp mặt của Jollibee, vừa có hai thương hiệu mà họ mua năm 2011?
Bên cạnh số lượng cửa hàng, điều khiến các nhà kinh doanh fastfood lớn thật sự quan tâm là "anh giành được mặt bằng ở đâu?". Yếu tố này theo nhìn nhận của "dân môi giới nhà đất" là đang có cuộc rượt đuổi, thậm chí... phá giá giữa các nhãn fastfood. Đó cũng là lý do mà ai cũng quan tâm cửa hàng của McDonalds sẽ mở ở đâu!
Chi phí nhượng quyền ban đầu: 45.000 USD
Chi phí đầu tư cho cửa hàng ban đầu: 1,3 - 2,47 triệu USD
KFC vào Việt Nam và mở cửa hàng đầu tiên tại TP.HCM vào năm 1997. 
Hiện KFC có 134 cửa hàng tại Việt Nam. 
Lotteria đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Mở cửa hàng đầu tiên tại TP.HCM năm 1998.
Hiện Lotteria có 146 cửa hàng.
Mở cửa hàng đầu tiên tại TP.HCM năm 1996.
Hiện có hai cửa hàng nhượng quyền tại Việt Nam, phần còn lại do Tập đoàn Jollibee, Philippines đầu tư. 
Phí nhượng quyền và đầu tư vào một nhà hàng: 266.445.00 - 532.890.00 USD.Hiện có 30 cửa hàng tại Việt Nam.
- Các cửa hàng của McDonalds có thể đứng riêng lẻ, nằm trong khu ẩm thực tại các trung tâm thương mại hoặc những hình thức khác. 
- McDonalds có bốn hình thức nhượng quyền:
* Cửa hàng truyền thống (traditional restaurant): thường là các nhà hàng độc lập có quy mô lớn, các cửa hàng chiếm giữ mặt tiền, khu ăn uống trong trung tâm thương mại và những khu vực khác. Bên mua nhượng quyền điều hành cửa hàng với một thực đơn đầy đủ, với việc tuân thủ tiêu chuẩn về chất lượng và đồng bộ về thực phẩm lẫn dịch vụ. Hợp đồng nhượng quyền này thường có thời hạn 20 năm. 
* Cửa hàng vệ tinh: Bên nhận nhượng quyền được phép mở cửa hàng trong các cửa hàng bán lẻ, trung tâm thương mại, sân bay, trường đại học, bệnh viện và những khu vực khác. Những cửa hàng này thường phục vụ theo một thực đơn thu nhỏ so với thực đơn trong các cửa hàng truyền thống và trong một vài trường hợp thì họ phục vụ những sản phẩm không nằm trong thực đơn truyền thống của McDonalds. Thời hạn nhượng quyền của mô hình này phụ thuộc vào từng khu vực và vị trí. 
* STO và STR locations - "Small Town Oil": cửa hàng McDonalds thường nằm bên trong các trạm nhiên liệu hoặc các cửa hàng tiện lợi. 
* BFL franchises - "Business Facilities Lease": cấp nhượng quyền thương mại dưới hình thức các hợp đồng cho thuê, bao gồm cả cơ sở vật chất kinh doanh. Thông qua BFL, bên nhận nhượng quyền có thể mua lại tài sản cố định của cửa hàng sau năm đầu tiên và gia hạn thời gian nhượng quyền thêm 20 năm sau kỳ đầu tiên của hợp đồng.

Khám phá nhịp độ thị trường 8/3: Ngóng chị, trông em

Nắm bắt xu hướng này, hệ thống siêu thị Co.opmart đã cùng với các nhà cung cấp và những đơn vị sản xuất trong nước chuẩn bị nguồn hàng khá phong phú về chủng loại, thiết kế và mức giá. Số lượng nhà cung cấp và danh mục sản phẩm tham gia chương trình năm nay của Co.opmart tăng 35% so với cùng kỳ.

Nhiều chương trình khuyến mãi được tung ra trong dịp 8/3
Nhận định về 8/3 năm nay, bà Nguyễn Quỳnh Sa, Giám đốc Công ty CP Chúc Mừng Sinh Nhật (www.sinhnhat.vn), cho rằng: "Theo kinh nghiệm nhiều năm làm trong ngành dịch vụ quà tặng, cứ năm nào Valentine trùng vào ngày Tết, khách hàng nam giới thường không có điều kiện tặng quà cho người yêu hay vợ thì đến dịp 8/3 họ sẽ bù lại: tặng quà nhiều hơn, giá trị lớn hơn, sử dụng dịch vụ hào phóng hơn".
Nắm bắt xu hướng này, hệ thống siêu thị Co.opmart đã cùng với các nhà cung cấp và những đơn vị sản xuất trong nước chuẩn bị nguồn hàng khá phong phú về chủng loại, thiết kế và mức giá. Số lượng nhà cung cấp và danh mục sản phẩm tham gia chương trình năm nay của Co.opmart tăng 35% so với cùng kỳ.
Xác định phụ nữ là phân khúc khách hàng chính nên hệ thống siêu thị Co.opmart đã đầu tư và tạo sức hút bằng các hoạt động gia tăng tiện ích cho khách hàng, đặc biệt là khách hàng thành viên. Trong đó, chương trình "Rạng ngời ngày mới" giảm giá tới 45% cho hơn 3.000 sản phẩm chăm sóc sắc đẹp.
Hoành tráng nhất trong dịp này phải kể đến chương trình "Tôn vinh vẻ đẹp Việt" của hệ thống siêu thị Big C. Năm nay, chương trình kéo dài đến 32 ngày (từ 1/3 - 1/4), được triển khai tại 21 siêu thị Big C trên toàn quốc với hàng loạt các hoạt động tư vấn chăm sóc sắc đẹp, dùng thử sản phẩm, trang điểm miễn phí, giao lưu với các chuyên gia và người nổi tiếng..., đồng thời giảm giá đến 50% cho khoảng 2.000 mặt hàng mỹ phẩm, phụ kiện, quần áo thời trang...
Đặc biệt, lần đầu tiên Big C kết hợp với Công ty Unilever Việt Nam mang đến chương trình rút thăm trúng thưởng hấp dẫn với 21 xe hơi Chevrolet Spark, 21 xe máy Attila Elizabeth, phiếu mua hàng, bộ mỹ phẩm...
Không bỏ qua cơ hội kinh doanh dịp 8/3, các siêu thị điện máy cũng tung ra nhiều chương trình khuyến mãi và hoạt động ý nghĩa dành cho chị em, như quà tặng, thẻ ưu đãi... Tại Thiên Hòa có chương trình bán hàng đồng giá và "Giờ vàng ưu đãi".
Từ ngày 1 - 10/3, chị em phụ nữ sẽ nhận được ngay phiếu quà tặng trị giá 500.000đ, 200.000đ, 100.000đ khi mua hàng tại Thiên Hòa, được giảm giá đặc biệt khi sở hữu thẻ thành viên Thiên Hòa và được tặng ngay Thẻ Gold Vip cho khách hàng là nữ khi mua sắm. Ngoài ra, khách hàng còn có cơ hội mua hàng giảm giá đến 50%, mua hàng trả góp lãi suất ưu đãi 0% và hàng ngàn sản phẩm giá ưu đãi...

Chia sẻ với bạn về cú lội ngược dòng của cơm kẹp

Để tránh bài toán chi phí cao và khó khăn trong tìm kiếm mặt bằng, AppeRice áp dụng chiến lược bầy sói, tức là mở những ki-ốt bán hàng có diện tích nhỏ khoảng 5-15 m2 với vốn đầu tư khoảng 50-100 triệu đồng/ki-ốt. Các ki-ốt này được mở gần các quán bán thức ăn nhanh Lotteria hay KFC. AppeRice dự tính, chỉ trong vòng 6-9 tháng có thể thu hồi vốn đầu tư.
Một ngày tháng 6/2010, trên chuyến bay sang New York của China Airlines, gia đình Ngô Trọng Thanh được thưởng thức món cơm kẹp, gần giống với món cơm nắm đặc trưng của người Việt.
Mặt bằng từng ngốn một khoản tiền không nhỏ của VietMac
Ký ức về những ngày “cơm nắm muối vừng” dội về, Thanh bàn với vợ, khi về Việt Nam sẽ làm một thứ giống như thế để bán. Tháng 7/2010, cửa hàng cơm kẹp đầu tiên ra đời tại số 80, Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội với tên gọi VietMac.
Ngày đầu khai trương, những người sáng lập VietMac chỉ mong bán được 300 suất ăn đã được gọi là thành công. Nhưng con số này đã lên tới hơn 1.600 suất.
Nguyễn Thành Dương, đồng sáng lập VietMac và là Giám đốc Điều hành phải trực tiếp bưng bê phục vụ khách.
Trong suốt một tuần đầu mở cửa, ngày bán được ít nhất cũng 1.250 suất, Dương cho biết. Cũng lúc này, Việt kiều ở các nước cũng tới tấp bay về thương thảo mua cổ phần VietMac với ý định đưa thương hiệu này ra nước ngoài.
Thành công bước đầu ngoài mong đợi, VietMac nhanh chóng mở rộng thị trường vào TP.HCM. Theo Ngô Trọng Thanh, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của công ty này, “bất kỳ doanh nghiệp nào nếu không thành công ở TP.HCM thì chưa thể gọi là thành công ở Việt Nam”.
VietMac thuê cửa hàng ở đường Nguyễn Văn Trỗi giao Trương Quốc Dung, quận Phú Nhuận, TP.HCM, với giá 135 triệu đồng/tháng (tháng 2/2012). Tuy nhiên, cửa hàng này nhanh chóng đóng cửa sau một thời gian ngắn hoạt động.
Với số vốn đầu tư ban đầu khoảng nửa triệu USD (khoảng trên 10 tỷ đồng) bằng tiền mặt của các cổ đông, không có quỹ đầu tư hay vay vốn ngân hàng, mỗi tháng VietMac phải bù lỗ khoảng 600 triệu đồng do vội vã mở thêm hàng loạt cửa hàng mới. Ban lãnh đạo VietMac buộc phải rà soát lại xem vấn đề nằm ở đâu.
Giá mỗi suất cơm kẹp VietMac dao động từ 20.000-30.000 đồng nhưng giá thuê mặt bằng không hề rẻ. Mặt bằng lớn đã ngốn khoản tiền không nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của VietMac lại có hạn.
Thêm vào đó, đồ ăn tại những chuỗi thức ăn nhanh nước ngoài tại Việt Nam là đồ cấp đông, có thể dự trữ để bán lâu dài. Trong khi đó, ở VietMac là thức ăn tươi, chế biến đến đâu phải bán hết đến đó. Người bán phải ước chừng lượng khách để làm số phần cơm. Nếu khách ít thì cơm ế, khách nhiều lại không có cơm để bán.
Đó là chưa kể, kinh doanh ở Hà Nội rất khác ở TP.HCM. Theo anh Dương, kinh doanh ở TP.HCM rất chú trọng đến dịch vụ trong khi anh là dân Hà Nội mới vào nên chưa hiểu hết văn hóa kinh doanh trong này.
“Một người bạn của tôi cũng vào TP.HCM kinh doanh quán cà phê với vốn đầu tư 8 tỷ đồng. Tính hết 3 ca trực, chỉ riêng đội ngũ bảo vệ cũng lên tới 25 người. Lương 4 triệu đồng/người/tháng, mỗi tháng chỉ tính riêng tiền thuê bảo vệ giữ xe cũng mất cả 100 triệu đồng/tháng. Nếu khoản tiền đó dùng để marketing thì có thể giải quyết được bao nhiêu là việc”. Đó là cách tính tưởng chừng rất có lý của anh Dương nhưng dường như không phù hợp khi kinh doanh ở TP.HCM.
Từ những điểm yếu này, VietMac bắt đầu thay đổi chiến lược. Đến tháng 9/2012, VietMac chuyển sang bán những sản phẩm có thể dự trữ đông được như KFC sau khi nhập dây chuyền sản xuất lên tới gần 1 triệu USD.
Cùng với việc áp dụng quy trình sản xuất mới, VietMac tung ra nhãn hiệu mới AppeRice, song song tồn tại cùng VietMac. “Tất nhiên sẽ có cảnh mình cạnh tranh với chính mình nhưng việc đưa ra một nhãn hiệu mới sẽ làm cho thị trường sôi động hơn, hấp dẫn hơn chứ cuộc chơi mà chỉ có mình tham gia thì khó mở rộng thị phần”, anh Dương cho hay. Hơn nữa, đối tác mua cổ phần VietMac muốn đưa cơm kẹp ra nước ngoài nhưng lại bị hãng thức ăn nhanh McDonald’s kiện vì thương hiệu có chữ “Mac”.
Để tránh bài toán chi phí cao và khó khăn trong tìm kiếm mặt bằng, AppeRice áp dụng chiến lược bầy sói, tức là mở những ki-ốt bán hàng có diện tích nhỏ khoảng 5-15 m2 với vốn đầu tư khoảng 50-100 triệu đồng/ki-ốt. Các ki-ốt này được mở gần các quán bán thức ăn nhanh Lotteria hay KFC. AppeRice dự tính, chỉ trong vòng 6-9 tháng có thể thu hồi vốn đầu tư.
Với chiến lược này, từ chỗ phải dẹp hàng loạt cửa hàng, VietMac đã “lội ngược dòng”. Đến tháng 11/2012, VietMac đã hòa vốn và bắt đầu có lãi với mức doanh thu và lợi nhuận hàng tháng được Giám đốc Điều hành Nguyễn Thành Dương chia sẻ “rất là cao”. Anh Dương cho biết tăng trưởng doanh thu đạt khoảng 100%/năm, cao hơn mức tăng trưởng trung bình của ngành này ở Việt Nam (26%).
Theo anh Dương, hiện tại thương hiệu này được định giá 2,5 triệu USD (khoảng 50 tỷ đồng). VietMac đã bán 5% cổ phần cho một đối tác ở Đức cách đây khoảng 5 tháng và sắp tới là một đối tác ở Czech.
Với thị trường trong nước, hiện VietMac đã ký hợp đồng cung cấp suất ăn cho hơn 10 công ty du lịch, lữ hành tại Việt Nam, cũng như sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Nội Bài. Theo kế hoạch, tháng 7-8 tới đây, VietMac sẽ tiếp tục mở rộng thêm chuỗi cửa hàng, bên cạnh 20 cửa hàng hiện có.
Anh Dương cho biết, để đi đường dài, VietMac đã chọn phân khúc khách hàng mục tiêu là các em trong độ tuổi từ 9-14 tuổi bởi đây là những khách hàng mua thường xuyên và ổn định. Anh Dương đánh giá, đây là phân khúc khách hàng đầy tiềm năng.

Tìm hiểu về chuyện mua bán, sáp nhập: Cá lớn dìu cá bé

Ngay sau khi trở thành công ty thành viên của Masan Group, Vinacafé Biên Hòa đã được hưởng lợi nhờ được sử dụng chung hệ thống phân phối trải rộng cả nước của Masan. Đây là lợi thế lớn đối với công ty sản xuất cà phê hòa tan có thị phần lớn nhất nước này. Với hệ thống phân phối bao gồm hơn 160.000 điểm bán hàng, trên 1.600 nhân viên bán hàng và 162 nhà phân phối của Masan Consumer, sản phẩm của Vinacafé Biên Hòa có “độ phủ sóng” trên toàn quốc tốt hơn rất nhiều so với trước khi sáp nhập.
Hoạt động M&A ở Việt Nam vẫn bị gán cho hình ảnh thiếu thân thiện: cá lớn nuốt cá bé. Thế nhưng trong đại dương mênh mông, nhiều “cá lớn” đang giúp “cá bé” kiếm mồi nhiều hơn và vượt qua sóng lớn.

Hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) tại Việt Nam từ trước tới nay, trong con mắt của nhiều người, vẫn thường được coi là sự thâu tóm thù địch, cá lớn nuốt cá bé, một cuộc chơi chỉ dành riêng cho những đại gia quyền lực và hầu như không mang lại lợi ích cho xã hội.
Tuy nhiên, nếu lật ngược vấn đề sẽ thấy rất nhiều doanh nghiệp nhỏ sau khi được doanh nghiệp lớn mua lại đã gia tăng đáng kể hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô. Không phải vô cớ, nhiều doanh nghiệp lớn lại chọn M&A làm bàn đạp để vươn tới những tầm cao mới tại Việt Nam và cả khu vực.
Nhìn tổng thể, có 3 lý do cơ bản để chọn M&A là một giải pháp tối ưu nhằm gia tăng nhanh chóng quy mô của một công ty. Thứ nhất, lợi thế kinh tế nhờ quy mô (economy of scale). Thứ hai, gia tăng sức mạnh thị trường. Thứ ba, đầu tư tài chính.
Lợi thế kinh tế nhờ quy mô
Với lý do thứ hai - gia tăng sức mạnh thị trường - thì mục đích chính của doanh nghiệp đi mua là tăng thị phần thông qua sáp nhập đối thủ cạnh tranh. Ai cũng hiểu khi thị phần của một doanh nghiệp lớn hơn sẽ dẫn tới sự gia tăng sức mạnh thị trường và khả năng tác động đến giá cả trên thị trường của doanh nghiệp.
Do vậy, dạng hoạt động này của doanh nghiệp thường được giám sát chặt chẽ bởi chính quyền ở các nước phát triển, bởi nếu một thương vụ M&A dẫn tới việc một doanh nghiệp có được quá nhiều sức mạnh thị trường, giá cả sản phẩm sẽ đắt đỏ hơn cho người tiêu dùng và chính quyền phải luôn nhân danh lợi ích của người tiêu dùng để kiểm soát việc này.
Ở Việt Nam, ta có thể thấy một ví dụ khá điển hình theo kịch bản này. Đó là thương vụ sáp nhập tiềm năng giữa MobiFone và Vinaphone đã bị nhiều ý kiến lo ngại rằng dễ dẫn đến việc công ty sau sáp nhập có thị phần quá lớn. Hệ quả là nó giống như một dạng tái hình thành sự độc quyền thị trường viễn thông trong nước trong bối cảnh các công ty bé hơn rất nhiều ngày càng yếu đi. Sự rút lui của Beeline là một dẫn chứng.
Với lý do thứ ba - đầu tư tài chính - mục đích chính của doanh nghiệp đi mua là cấu trúc lại công ty mục tiêu (công ty được mua) rồi bán lại để nhanh chóng thu về lợi nhuận. Có thể kể đến một số thương vụ theo kịch bản này đã diễn ra trên thị trường, như Công ty Quản lý Quỹ Prudential Việt Nam (đã đổi tên thành Công ty Quản lý Quỹ Eastspring Investments) mua và sau đó bán lại cổ phần của Công ty Cổ phần Việt Pháp sản xuất thức ăn gia súc Proconco cho Tập đoàn Masan (Masan Group).

Với yếu tố thứ nhất, “economy of scale”, thường được dịch ra tiếng Việt là lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Vì chữ “economy” trong tiếng Anh còn có nghĩa là tiết kiệm, cho nên cũng có thể hiểu một cách hết sức đơn giản là tiết kiệm được nhờ quy mô (sản xuất hoặc kinh doanh). Đây là một khái niệm rất cơ bản trong kinh tế học vi mô. Thực chất, đó là lợi ích từ việc tiết giảm được chi phí hoặc lợi thế về chi phí mà một doanh nghiệp có được nhờ tăng quy mô sản xuất đến một điểm tối ưu. Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải có hai loại chi phí: cố định và biến đổi. Chi phí cố định là loại chi phí doanh nghiệp phải chi trong một thời gian nhất định, bất kể sản lượng trong kỳ của mình ra sao (thuê đất đai, bộ máy quản lý, đầu tư nhà xưởng máy móc).
Chẳng hạn, với một công ty lớn như Vinamilk thì đây là các loại chi phí họ buộc phải chi trả hàng tháng, bất kể sản lượng tăng hay giảm. Chi phí biến đổi là loại chi phí thay đổi theo sản lượng của doanh nghiệp, ví dụ ở Vinamilk là chi phí nguyên liệu sữa đầu vào, đóng gói bao bì…
Như vậy, nếu sản lượng (quy mô) sản xuất của doanh nghiệp càng lớn thì các chi phí cố định sẽ được chia đều cho một số lượng lớn hơn các sản phẩm. Nhờ đó, chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống. Đây là yếu tố quyết định để đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô (tiết giảm chi phí được nhờ tăng quy mô sản xuất).
Theo TS. Nguyễn Tú Anh, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương: “Bản chất kinh tế của hiện tượng “lợi thế kinh tế nhờ quy mô” khá đơn giản và rõ ràng: trong tất cả các ngành, bắt đầu từ quy mô bằng không, khi quy mô tăng lên thì hiệu quả kinh doanh sẽ tăng lên. Cho tới một mức độ nào đó thì tính hiệu quả sẽ đạt mức tối ưu, sau đó tăng lên nữa thì có thể không có lợi. Các yếu tố tạo ra cái gọi là quy mô tối ưu có nhiều, ví dụ quy mô của thị trường mà doanh nghiệp này hoạt động, trình độ công nghệ của thời đại”.
Con đường tất yếu
Như đã đề cập trong đầu bài, bản chất của các thương vụ M&A không phải lúc nào cũng là cá lớn nuốt cá bé. Bản thân các bên tham gia một thương vụ M&A sẽ phải cân nhắc lợi ích về hiệu quả hoạt động khi hai doanh nghiệp được sáp nhập.
TS. Nguyễn Tú Anh cho rằng, lợi ích này xuất phát từ một thực tiễn là mỗi ngành nghề đều có quy mô tối ưu. Nếu công ty hoạt động với quy mô thấp hơn quy mô tối ưu sẽ làm tăng chi phí và giảm hiệu suất. Vì vậy, trong một giao dịch M&A giữa hai doanh nghiệp có quy mô thấp hơn quy mô tối ưu của các công ty này, có khả năng tạo ra một chủ thể mới với quy mô và hiệu suất tốt hơn rất nhiều.
Giả định kịch bản này xảy ra, nền kinh tế sẽ được hưởng lợi và một phần của lợi ích đó được dành cho người tiêu dùng, thể hiện ở việc mức giá bán sản phẩm hàng hóa sẽ thấp hơn. Chẳng hạn, thời gian gần đây nhiều ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước yêu cầu sáp nhập với nhau trong đề án tái cơ cấu ngành ngân hàng.
“Dường như lý do mà Ngân hàng Nhà nước dựa vào cũng là xuất phát từ sự tin tưởng rằng, khi hợp nhất các ngân hàng nhỏ này sẽ có quy mô lớn hơn và vì vậy hiệu quả hơn”, ông Tú Anh nói.
Đối với một thị trường đang phát triển như Việt Nam, rõ ràng việc đạt được hiệu quả quy mô là yếu tố thiết yếu để các công ty có thể cạnh tranh được với các đối thủ lớn từ nước ngoài ngay trên sân nhà. Cuộc chơi khốc liệt trong ngành viễn thông có thể sẽ khác đi rất nhiều nếu giả dụ Viettel chỉ có quy mô nhỏ và hoạt động không hiệu quả. Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Viettel đã rất nhanh chóng đạt được hiệu quả nhờ quy mô và vươn lên trở thành một đối thủ cạnh tranh đáng nể không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực Đông Nam Á và đang vươn ra cả châu Phi.
Theo phân tích từ nhóm chuyên gia Công ty TNK Capital, Vinamilk là một ví dụ thú vị khác trong ngành thực phẩm sữa, khi hiện tại dường như chưa có công ty sản xuất sữa nào ở Việt Nam có thể đạt được tỷ lệ biên lợi nhuận ấn tượng như vậy. Tiếp tục điểm mặt có thể kể đến Tân Hiệp Phát, Masan, Kinh Đô, Thủy sản Hùng Vương… Họ đều đang được hưởng rất nhiều lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các đối thủ bé hơn trên thị trường Việt Nam nhờ cả một quá trình chuẩn bị bài bản nhằm đạt được hiệu quả quy mô tốt hơn.
Dường như việc giành được tính kinh tế nhờ quy mô, dù theo các con đường M&A (các trường hợp Masan, Doji) hay mở rộng ngành nghề cốt lõi (Vinamilk, Tân Hiệp Phát) là ưu tiên số 1 của ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt.
Cá lớn dìu cá bé
Tiến sĩ Trần Vinh Dự, Tổng giám đốc TNK Capital, cho biết lợi thế kinh tế nhờ quy mô có thể xuất hiện trong các thương vụ M&A giữa các đối thủ cạnh tranh trực tiếp, hoặc giữa các công ty không cạnh tranh với nhau nhưng sở hữu một số giá trị cộng hưởng. Việc sáp nhập hai công ty là đối thủ cạnh tranh trực tiếp có thể cho lợi thế kinh tế nhờ quy mô, song rất khó để phân tích xem một vụ M&A như vậy về tổng thể là tốt hay xấu. Lý do là do sự đan xen giữa lợi thế kinh tế nhờ quy mô (lợi ích) và độc quyền sức mạnh thị trường (tác hại).
Ông Dự nói: “Sáp nhập giữa hai công ty không cạnh tranh với nhau thì đơn giản hơn nhiều vì thường một thương vụ như vậy chỉ có tác động tích cực tới nền kinh tế thông qua lợi thế nhờ quy mô mà thôi”.
Tại nước ta, hầu hết các ngành nghề đều đang ở dạng bị phân tán mạnh, nghĩa là có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ, chưa xuất hiện nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn và cực lớn mà ta tạm gọi là “Câu lạc bộ 1 tỷ USD”. Nhóm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay như Vinamilk, Doji… Hơn nữa, quá trình cạnh tranh dần dần sẽ thúc đẩy để hình thành các doanh nghiệp lớn (những người giỏi hơn và may mắn hơn). Nên xem đây là một quá trình tự nhiên và có lợi cho người tiêu dùng và nhà đầu tư (với điều kiện hiệu quả tăng thêm này được chia sẻ cho cả công ty và người tiêu dùng).
Vì lẽ đó, TS. Trần Vinh Dự - người tham gia tư vấn chiến lược và M&A cho nhiều công ty ở Việt Nam - cho rằng, không nên nhìn nhận các doanh nghiệp lớn như là những “đồ tể” vác đao đi “hành hình” các doanh nghiệp nhỏ. Bởi theo ông, nếu tìm cách hạn chế các doanh nghiệp lớn, thì sẽ làm giảm đi hiệu quả của toàn thị trường và tiếp theo là triệt tiêu động lực làm giàu của giới kinh doanh.
Chủ đề doanh nghiệp lớn đi mua lại doanh nghiệp nhỏ cũng có thể được nhìn ở một góc độ như vậy. Doanh nghiệp lớn khi mua lại doanh nghiệp nhỏ, theo ông Dự, có thể giúp doanh nghiệp nhỏ tăng hiệu quả kinh doanh lên rất nhiều. Tất nhiên việc này phải đi đôi với chuyện đảm bảo tính cạnh tranh của thị trường. Có nghĩa là các doanh nghiệp cùng một ngành mà sáp nhập với nhau để có thị phần quá lớn đến mức thống lĩnh hoặc độc quyền thị trường thì không nên.
Tuy vậy, việc sáp nhập khác ngành thì hoàn toàn không có vấn đề gì. Chiến lược M&A của Masan Group và công ty con của nó là Masan Consumer là một câu chuyện rất thú vị, bởi doanh nghiệp này không thôn tính đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành. Ngược lại, Masan Group đi mua và tạo giá trị ở các thị trường khác, mặc dù cùng nhóm ngành hàng tiêu dùng.
Trong thực tế, theo các chuyên gia kinh tế, rất khó để có thể chứng minh được bằng số liệu việc đạt được hiệu quả nhờ quy mô đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Lý do là khó có thể đưa ra những dữ liệu chính xác về chi phí, mức giảm giá cả, vì lạm phát ở Việt Nam rất cao. Trong khi đó, nhiều thương vụ M&A đình đám mới chỉ diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn, nên khó tính toán cụ thể.
Tuy nhiên, câu chuyện lợi thế kinh tế nhờ quy mô có vẻ được diễn giải cụ thể hơn qua các điển cứu (case studies) của Masan Group. Ba thương vụ M&A gần đây của công ty này (Vinacafé Biên Hòa, Proconco, Nước khoáng Vĩnh Hảo) đã chứng minh các thương vụ M&A đã có tác động tích cực tới nền kinh tế như thế nào: (1) cổ đông bán trong các công ty mục tiêu nhận được định giá cao và lợi nhuận hấp dẫn; (2) hoạt động của công ty mục tiêu sau sáp nhập tốt hơn rất nhiều so với trước sáp nhập, do Masan thực hiện tốt việc quản trị doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh và các cải tiến năng suất; (3) không có doanh nghiệp nào Masan mua là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, do vậy không có hiệu ứng cạnh tranh tiêu cực.
Một ví dụ hữu hình nhất - thương vụ M&A đối với Vinacafé Biên Hòa (xem thêm bài trang 38) đã mang lại những kết quả kinh doanh tích cực cho công ty này theo báo cáo tài chính sau sáp nhập. Vinacafé đã đạt hiệu quả hoạt động rất cao, thể hiện qua (1) các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận gộp, lợi nhuận sau thuế, lợi nhuận biên (xem biểu đồ); (ii) giá cổ phiếu Vinacafé từ mức dao động quanh 95.000 đồng/cố phiếu khi Masan Consumer chào mua (tháng 10/2011), đã tăng lên đến 219.000 đồng/cổ phiếu vào ngày 27/2/2013 (Nguồn: Báo cáo tài chính Vinacafé Biên Hòa).
Ngay sau khi trở thành công ty thành viên của Masan Group, Vinacafé Biên Hòa đã được hưởng lợi nhờ được sử dụng chung hệ thống phân phối trải rộng cả nước của Masan. Đây là lợi thế lớn đối với công ty sản xuất cà phê hòa tan có thị phần lớn nhất nước này. Với hệ thống phân phối bao gồm hơn 160.000 điểm bán hàng, trên 1.600 nhân viên bán hàng và 162 nhà phân phối của Masan Consumer, sản phẩm của Vinacafé Biên Hòa có “độ phủ sóng” trên toàn quốc tốt hơn rất nhiều so với trước khi sáp nhập.

Nhờ đó, doanh thu của “cá bé” Vinacafé Biên Hòa năm 2012 đã tăng mạnh thêm 528 tỷ đồng so với 285 tỷ năm 2011 nhờ “cá lớn” Masan. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của công ty cũng tăng cao, thể hiện ở việc dù quy mô doanh thu cao nhưng tỷ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu vẫn tăng từ 24,7% năm 2011 lên 27,6% năm 2012.
Năm 2012, Vinacafé Biên Hòa lãi 304 tỷ đồng, tăng 44% so với năm trước đó và EPS đạt 11.431. Tỷ lệ lợi nhuận gộp và lợi nhuận sau thuế trên doanh thu tiếp tục tăng trong năm 2012, chứng tỏ hiệu quả hoạt động của công ty này vẫn đang trên đà tăng.
“Tính đến tháng 3/2012, toàn bộ sản phẩm của Vinacafé Biên Hòa đã được phân phối 100% qua cùng hệ thống phân phối của công ty Masan Consumer. Các chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh nhãn hiệu, phát triển sản phẩm mới và tăng cường hiệu quả đầu tư, lợi nhuận bán hàng cũng diễn ra theo đúng kế hoạch” (Nguồn: Báo cáo thường niên 2011 của Masan Consumer).
Vinamilk cũng đạt được lợi thế kinh tế rất lớn nhờ mở rộng quy mô. Thành lập năm 1976 trên cơ sở tiếp quản quyền quản lý ba nhà máy sữa từ chế độ cũ, cho đến nay Vinamilk đã trở thành công ty sản xuất sữa lớn nhất nước. Chỉ tính riêng từ cột mốc 2006 - năm cổ phiếu của Vinamilk lên sàn giao dịch chứng khoán, đến hết năm 2012 giá cổ phiếu công ty này đã tăng 10 lần.
Theo kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2012, doanh thu thuần năm 2012 đạt 26,5 nghìn tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 5,8 nghìn tỷ. So với năm 2006, đến hết năm 2012 doanh thu của Vinamilk đã tăng gấp 4 lần, mức tăng trưởng trung bình đạt 26,5%/năm. Lợi nhuận sau 6 năm tăng 8,8 lần với tốc độ tăng trung bình 43,7%/năm.
Một “cá bé” khác được hưởng lợi từ sự hỗ trợ lớn của “cá lớn” qua M&A là thương vụ Coteccons - Kusto. Trong thương vụ trị giá 25 triệu USD này (500 tỷ đồng), Kusto với tư cách là một nhà đầu tư có tầm vóc và nhiều hợp đồng xây dựng lớn trong khu vực châu Á, đã giúp Coteccons đảm bảo được các hợp đồng thi công và công nghệ, máy móc mới để tham gia vào các lĩnh vực mới, như xây dựng cơ sở hạ tầng. Khoản đầu tư trị giá 500 tỷ đồng giúp Coteccons mua sắm thiết bị, đầu tư nghiên cứu và chuẩn bị vốn đối ứng cho các dự án mới, cũng như thực hiện những giao dịch M&A với các công ty xây dựng nhỏ hơn để hoàn tất chiến lược hợp nhất thị trường.
Nhờ vậy, lợi nhuận năm 2012 của Coteccons vẫn được duy trì ở mức trên 200 tỷ đồng như năm 2011, dù hầu hết công ty xây dựng bị lỗ năm qua. Giá trị cộng hưởng dành cho cả hai bên qua thương vụ này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho Coteccons trên con đường chinh phục mục tiêu doanh thu 1 tỷ USD trong 7 năm tới.

Tìm hiểu về thời của đối tác Nhật

Ông Trương Văn Phước - TGĐ Eximbank cũng thừa nhận SMBC còn hỗ trợ Eximbank tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí hợp lý và tăng cường thanh khoản cho Eximbank bằng hạn mức cho vay liên ngân hàng, tài trợ thương mại và bảo lãnh, giúp lựa chọn và áp dụng công nghệ thông tin hiện đại... Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà từ một ngân hàng chỉ có tổng tài sản khiêm tốn 33.710 tỉ đồng năm 2007, tính đến quý IV/2012, tổng tài sản của Eximbank đã tăng lên trên 5 lần và đạt tới 170.252 tỉ đồng.
Cổ đông Vietinbank (CTG) đã chính thức chấp thuận Ngân hàng Tokyo Mitsubishi UFJ (BTMU) trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài, tại đại hội cổ đông bất thường ngày 26/2/2013. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước tham gia sâu của các nhà đầu tư Nhật vào thị trường tài chính VN.
Hợp tác chiến lược giữa VietinBank và Tập đoàn Tài chính Mitsubishi có là thương vụ lớn nhất đến thời điểm này
Trước đó, tại Việt Nam, một trong những cổ đông đầu tư ngân hàng lớn nhất cũng đến từ Nhật Bản. Đó là thương vụ diễn ra trong năm 2012, của Vietcombank.
Dấu ấn các ngân hàng ngoại
Nếu CTG chào đón đối tác Nhật từ Tập đoàn Tài chính Mitsubishi với phần bán 20% vốn đạt giá trị xấp xỉ 1 tỉ USD là thương vụ đình đám nhất trên thị trường M&A diễn ra cuối năm 2012, đầu năm 2013 là, thì việc Vietcombank bán 15% cổ phần cho Mizuho với trị giá đạt 570 triệu USD cũng là một thương vụ giao dịch quan trọng giữa các ông lớn.
Tuy nhiên, “kỳ cựu” trong xu hướng bán vốn này, phải kể đến Eximbank với mối lương duyên đã trọn vẹn 5 năm cùng Ngân hàng Sumimoto Mitsui Banking Corporation (SMBC) kể từ năm 2007 cho đến nay. SMBC đã và hiện đang sở hữu 15% vốn, tương đương tỉ lệ sở hữu Mizuho tại Vietcombank. Tuy nhiên thương vụ này chỉ được “hâm nóng” khi mới đây, viễn cảnh sáp nhập giữa Sacombank và Eximbank được vạch ra và theo đó, Sumimoto rất có thể sẽ gia tăng tỉ lệ sở hữu cổ phần Sacombank, để tránh pha loãng tỉ lệ cổ phần hiện có tại Eximbank khi cả 2 sáp nhập làm một.
Cũng đã có rất nhiều nhà băng ngoại tham gia sở hữu cổ phần tại các ngân hàng nội như ANZ, Standard Chartered, HSBC, Commonwealth Bank, Maybank,... thậm chí trong số này có lúc còn cùng là đối tác chiến lược ở 2, 3 ngân hàng Việt khác nhau.
Và đối tác Nhật
Vậy điều gì làm nên dấu ấn Nhật tại ngân hàng Việt?
Đầu tiên, có thể nói đó sẽ là giá trị quy mô thương vụ, giá trị phần vốn mà các đối tác Nhật góp đầu tư. Vietcombank, Vietinkbank đều là những ngân hàng có tổng vốn chủ sở hữu rất lớn so với những ngân hàng còn lại (ngoại trừ 1 số ngân hàng như BIDV). Việc chiếm một tỉ lệ sở hữu từ 10-20% tại các ngân hàng này đồng nghĩa với khoản đầu tư góp vốn sẽ chênh lệch rất lớn so với việc nắm giữ cũng chừng đó tỉ lệ sở hữu, nhưng ở một ngân hàng khác. Chưa kể, do vị thế của mình, hầu hết các hợp đồng bán vốn của Vietcombank, Vietinbank, dù không công bố chi tiết nhưng đều có chung đặc điểm là giá trị cổ phần được trả luôn cao hơn nhiều so với thị giá. Giới thạo tin còn nhận định, ngoài những giá trị hữu hình, các ngân hàng này nhận được nhiều giá trị vô hình khác từ thương vụ bởi khuôn khổ và quy mô hợp tác chiến lược của các ngân hàng này với các đối tác ngoại.
Năm 2012, ngành ngân hàng VN đang chuyển tái cấu trúc, và một trong những định hướng quan trọng được vạch ra là xây dựng những ngân hàng quy mô và tầm vóc ngang tầm khu vực. Sự mở rộng, bắt tay với các nhà đầu tư Châu Á chưa hẳn đã mang đến sự mở mang cho các ngân hàng nội trong tầm khu vực ngay lập tức, nhưng một bước lớn mạnh về tổng vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, qua đó là nâng thêm tầm cao về công nghệ, quản trị nhờ sự hỗ trợ từ các đối tác và kể cả những hậu thuẫn để giải trừ nợ xấu (nếu cần), nâng chất... đang hé mở cánh cửa tiến gần hơn đến việc hiện thực hóa định hướng này. Không lạ, khi hầu hết giới chuyên môn đều cho rằng Vietcombank và Vietinbank rõ ràng đã được các nhà hoạch định chính sách “nhắm” đến như những trụ cột chính của hệ thống ngân hàng VN, từ bệ phóng đầu lĩnh của thời hiện tại. Và kỳ vọng đó nay cũng đang đặt lên đôi vai của một ngân hàng có thể dẫn đầu hệ thống các NHTM CP như Eximbank, khi lộ trình sáp nhập với Sacombank cũng sẽ giúp hai ngân hàng này “phình to”, và tận dụng tốt hơn nữa lợi thế hợp tác quan trọng từ người bạn đồng hành Sumimoto. Đó cũng là lý do vì sao sau 5 năm có mặt tại Eximbank, Sumimoto hiện thời lại trở thành tâm điểm chú ý, cùng BTMU và Mizuho.
Ngoài ra, cũng trong năm qua, VN ghi nhận sự gia tăng đột biến hoạt động đầu tư từ các nhà đầu tư Nhật, với vị thế dẫn đầu việc rót vốn FDI. Trên thị trường M&A, độ phủ sóng của các nhà đầu tư Nhật dày đặc trong các thương vụ cũng là yếu tố cộng hưởng, trong khi đó, những nhà đầu tư từ các thị trường khác nói chung lại đang có xu hướng “co” lại, thích ứng với khủng hoảng kinh tế Châu Âu và suy thoái kinh tế toàn cầu theo cung cách hạn chế đầu tư mới và tìm cách thoái vốn đầu tư cũ.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, tháng 1/2013, Nhật Bản vẫn tiếp tục dẫn đầu về đầu tư FDI. Còn theo dự báo của StoxPlus, một tổ chức Nghiên cứu và Phân tích Dữ liệu Tài chính thì cùng với Hàn Quốc, Nhật Bản sẽ tiếp tục là nhà đầu tư số 1 trên thị trường M&A tại VN trong năm nay.
Thay máu và lột xác
Nếu lấy Eximbank làm ví dụ, sẽ thấy rất rõ sự đồng hành với Sumimoto đã giúp Eximbank lột xác ra sao. 5 năm, theo ông Hiroshi Minora – Phó tổng giám đốc SMBC, SMBC đã tư vấn và đề xuất Eximbank nâng cao hoạt động lập kế hoạch và hệ thống quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế, theo đó Eximbank đã hoàn thiện chính sách tín dụng và mô hình quản lý tín dụng tập trung và tăng cường quản lý rủi ro đối với hoạt động cấp tín dụng, kinh doanh vốn, kinh doanh vàng và kinh doanh tiền tệ;… đồng thời hỗ trợ Eximbank đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ, thu hút khách hàng Nhật Bản tại VN đến giao dịch với Eximbank nhằm mở rộng nền tảng khách hàng cho Eximbank.
Ông Trương Văn Phước - TGĐ Eximbank cũng thừa nhận SMBC còn hỗ trợ Eximbank tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí hợp lý và tăng cường thanh khoản cho Eximbank bằng hạn mức cho vay liên ngân hàng, tài trợ thương mại và bảo lãnh, giúp lựa chọn và áp dụng công nghệ thông tin hiện đại... Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà từ một ngân hàng chỉ có tổng tài sản khiêm tốn 33.710 tỉ đồng năm 2007, tính đến quý IV/2012, tổng tài sản của Eximbank đã tăng lên trên 5 lần và đạt tới 170.252 tỉ đồng.
Vị thế của Eximbank trong khối các ngân hàng cổ phần ngoài quốc doanh trên thị trường cũng đã có một sự thay đổi ngoạn mục và hiện tại, Eximbank đang nằm trong top 3 ngân hàng hàng của khối NHTM, chỉ sau 4 ông lớn Agribank, BIDV, VCB và CTG.
Trở lại với thương vụ hợp tác chiến lược có giá trị lớn nhất tính đến thời điểm hiện nay của CTG, theo nhiều chuyên gia, đây sẽ cú “lột xác” quan trọng. Một cách thận trọng nhưng không kém kỳ vọng, bộ phận Phân tích của CTCK Bản Việt nhận định thêm: Đây là tin tích cực đối với CTG vì ngoài hỗ trợ hoạt động và quản lý, việc bơm thêm vốn (dự kiến trong quý II/2013) sẽ tạo hỗ trợ cho nguy cơ chất lượng tài sản suy giảm tại CTG.
Bản Việt ước tính: Tăng vốn chủ sở hữu 46% sẽ cải thiện hệ số an toàn vốn của CTG lên hơn 17% từ mức 12% hiện tại. Giá trị sổ sách sau phát hành sẽ là 15.036 đồng/cổ phiếu so với hiện tại là 12.829 đồng/cổ phiếu. Như vậy, ảnh hưởng của đối tác Nhật tại CTG chắc chắn là không hề nhỏ. Và ảnh hưởng của các nhà đầu tư đối với nhà băng Việt rất có thể sẽ được “gia tăng” ở một số trong trường hợp, nếu dự thảo nghị định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng (TCTD) VN dự kiến sẽ thay thế Nghị định 69/2007/NĐ-CP hiện tại mà NHNN vừa công bố, được thông qua. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài có thể sở hữu trên 30% ở các TCTD yếu kém nếu được Thủ tướng chấp thuận và loại bỏ một số tiêu chuẩn có thể cản trở việc TCTD yếu kém bán cổ phần cho tổ chức nước ngoài.
Cơ hội có thể nhiều hay ít, nhưng các ngân hàng Việt sẽ làm thế nào để biến thành cơ hội Win – Win ?
Ông Phan Dũng Khánh - Trưởng phòng Nghiên cứu và Tư vấn Đầu tư CTCK Maybank Kim Eng VN:
Gần đây, các thông tin tiêu cực và kết quả kinh doanh cùng nợ xấu trong hệ thống NHTM đang là sự quan tâm hàng đầu của cả nền kinh tế, vì thế rõ ràng cổ phiếu ngành này cũng bị ảnh hưởng với xu hướng giảm. Tuy nhiên cho đến cuối năm 2012 khi một số tín hiệu tích cực từ nền kinh tế và nhiều chính sách trong nỗ lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng đã giúp cổ phiếu ngành này phục hồi phần nào, do sự kỳ vọng của NĐT về nợ xấu sẽ giảm, kênh dẫn vốn từ hệ thống ngân hàng sẽ phát huy mạnh trong thời gian tới qua đó cải thiện kết qủa kinh doanh. Vì thế cổ phiếu ngành ngân hàng đã được NĐT chú ý, giúp thanh khoản tăng vọt, tiếp tục là ngành dẫn đầu thị trường. Tuy nhiên việc cổ phiếu ngành này giao dịch ổn định với kỳ vọng tăng trưởng ổn định còn phải phụ thuộc vào độ "ngấm" chính sách và hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng trong thời gian tới.
Các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất quan tâm đến cổ phiếu và hoạt động đầu tư vào ngành ngân hàng. Dễ hiểu vì đây là ngành quan trọng trong nền kinh tế. Không chỉ ở VN, trên thế giới, ngân hàng luôn là ngành dịch vụ, trung gian trong nền kinh tế, mắt xích quan trọng trong nền kinh tế liên kết các ngành khác, dẫn vốn lưu thông trong nền kinh tế. Do đó, bên cạnh những nhà đầu tư ngắn hạn, nhiều tổ chức nước ngoài đã chọn ngân hàng như một nơi để tạo ra các sức mạnh liên minh, tạo giá trị tăng trưởng dài hạn.